Để vay mượn của vật lý học một hình ảnh tất nhiên chỉ có một giá trị gợi hình, tất cảnhững cơ cấu ấy đều thường bị phân cực, người ta không nhìn thấy nơi ý thức một cái bình kín mít được xem như là nơi giam nhốt những hiện tượng ý thức, mà là như một cái cực mà cực kia tùy theo những cơ cấu được xét đoán có thể là ngoại giới, tha nhân, hay là tính siêu việt Tôi có thể thêm vào bao nhiêu thí dụ mà tôi đã nêu lên, những thí dụ khác. Tôi muốn được kể thêm những sự kiếm tìm xác đáng của Ô. Paliard về ý tưởng ẩn tàng trong tri giác vềkhoảng cách. Xưa kia, người ta xem tri giác ấy như được thủ đắc nhờ ở sự phổi hợp những hình ảnh. Ô. Paliard, qua những cuộc thi nghiệm tinh xảo, đã cho thấy nó được hình thành bằng cách nào do một sự phản tỉnh tàng ẩn, nơi mà cảm giác và ngoại vật một cách hồ tương tự qui định như thể đó là hai cực.
Để tiếp nối hình ảnh, tôi sẽ kể lại một lời nói sâu sắc của một trong số những nhà tưtưởng lỗi lạc nhất của thời đại chúng ta, Paul Valéry, trong Một vài cảm nghĩ của Ô. Tesle, đã nói đến một thứ môi trường chi phối những hiện tượng ý thức – hình ảnh, ý tưởng, mà nếu không có nó sẽ chỉ là những sự phối hợp, những sự thành hình đối xứng của mọi sự phối hợp. Cũng như trong một điện trường tạo nên do một luồng điện đi qua một dịch thể từ dương cực sang âm cực, những con vốn phân tán một cách ngẫu nhiên trong dịch thể và do đó theo mọi cách phối hợp khả hữu, giờ đây cái thì hướng về dương cực, cái khác về âm cực, những cơ cấu của con người cũng được xem như là những lực trường đã sắp xếp, bằng cách phân cực, những yếu tố nào rơi vào vòng ảnh hưởng của chúng.
Ở bên ngoài những môi trường ấy chỉ có trong ý thức những "cặn bã" theo cách gọi trong một tác phẩm mới đây của Aldous Huxley, những cơn mơ mòng ấy mà ông mô tả như đó là "những sự hoán vị và những sự phối hợp của tinh thần được tạo thành trong khi ý thức vận động một cách ngẫu nhiên
Vẫn còn nội dung phía dưới, bạn hãy ấn nút để xem tiếp nhé...
Triết học thời mới cô lập và nghiên cứu những lực trường ấy : từ đó nãy sanh ra một đặc tính cuối cùng của nền triết học của chúng ta mà tôi kể đến để kết thúc, đó là lập trường đa nguyên, không phải theo như những nhà chủ trương thuyết nguyên tử xưa kia, mà là của ông Bachelard chẳng hạn, đã khiến nghĩ ngay đến sự phản biệt những mô hình theo kiểu Aristote.
Tư tưởng triết học, tóm lại, một khi nó trở nên sâu sắc (và hẳn nhiên là một bài học chung cho mọi người) đã đi ngược hẳn với những sự giản đơn và dạy cho biết rằng người ta không tạo nên điều gì cả với những nguyên lý trừu tượng. Điều đáng kể nơi nền tư tưởng mới của chúng ta là, giữa bao nhiêu những nỗi khó khăn và những sự mơ hồ, đã có một ý thức rõ rệt về điều kiện cốt yếu ấy của triết học.
Chú giải cuối cùng. Tôi đã hoàn tất tác phẩm này từ lâu, trước khi tôi được đọc quyển sách của Albert Broud,Từ tâm lý học đến triết học. Không những quyển sách này đã cũng cố thêm những quan niệm của tôi về, nẽo hướng chung của triết học, vì bởi nó không thể nào nhận nghiên cứu những hiện tượng ý thức độc lập với ngoại giới, mà sự áp dụng khái quát cái khái niệm của nó về môi trường giải thích thế giới tinh thần và thể giới vật chất lại còn trùng hợp với những gì mà một bản văn của Valéry đã khơi dậy trong tôi. "Môi trường, ông viết khi đề cập đến môi trường vật lý, không còn là một sự vật nữa mà là một hệ thống tương quan giữa những lực tinh xác. Mỗi trường sẽ che lấp dần dần cải vật chất" (trang 15). Và do đó người ta cũng có thể nói đến một môi trường tâm lý, tức là một vòng vận hành và những hình ảnh được hàm chứa trong một hệ thống được qui hướng bởi một khuynh hướng. Những môi trường như thế đối với nhà tâm lý học là một dữ kiện tối sơ mà những yếu tố chỉ có thể được tách rời bằng sự trừu tượng hóa. Môi trường như vậy sẽ là thực tại phổ quát vượt quá sự phân biệt vật chất với tinh thần.